Chính trị Palau

Trụ sở chính phủ của Palau.
Bài chi tiết: Chính trị Palau

Palau là một nước cộng hòa dân chủ đa đảng. Tổng thống Palau là nguyên thủ quốc gia và cũng là người đứng đầu chính phủ. Quyền hành pháp do chính phủ thi hành, còn quyền lập pháp được trao cho chính phủ và Quốc hội Palau. Bộ máy tư pháp độc lập với hành pháp và lập pháp. Palau thông qua một hiến pháp vào năm 1981.

Chính phủ Hoa Kỳ và Palau dàn xếp một hiệp ước liên kết tự do vào năm 1986, tương tự như các hiệp ước mà Hoa Kỳ ký kết với Liên bang Micronesia và Quần đảo Marshall.[13] Hiệp ước có hiệu lực vào ngày 1 tháng 10 năm 1994, kết thúc chuyển giao Palau từ ủy thác sang độc lập[13] và là bộ phận cuối của Lãnh thổ Ủy thác Quần đảo Thái Bình Dương đạt được độc lập theo Nghị quyết 956 của Hội đồng Bảo an.

Hiệp ước liên kết tự do giữa Hoa Kỳ và Palau[14] định ra liên kết tự do và tình nguyện giữa hai chính phủ. Nó chủ yếu tập trung vào các vấn đề chính phủ, kinh tế, an ninh và quốc phòng.[15] Palau không có quân đội độc lập, dựa vào Hoa Kỳ để phòng thủ. Theo hiệp ước, quân đội Hoa Kỳ được quyền tiếp cận quần đảo trong 50 năm. Hải quân Hoa Kỳ có vai trò tối thiểu, hạn chế trong một số ít Seabee hải quân (kỹ sư xây dựng). Tuần duyên Hoa Kỳ tuần tra vùng biển của Palau.

Ngoại giao

Palau là một quốc gia có chủ quyền, quản lý các quan hệ đối ngoại của mình.[13] Từ khi độc lập, Palau thiết lập quan hệ ngoại giao với một số quốc gia, bao gồm nhiều láng giềng Thái Bình Dương như Liên bang MicronesiaPhilippines. Ngày 29 tháng 11 năm 1994, Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc thông qua Nghị quyết số 963 đề nghị tiếp nhận Palau vào Liên Hiệp Quốc. Đại hội đồng liên Hiệp Quốc phê chuẩn tiếp nhận Palau vào ngày 15 tháng 12 năm 1994.[16] Palau từ đó tham gia một vài tổ chức quốc tế khác. Trong tháng 9 năm 2006, Palau đăng cai Hội nghị Thượng đỉnh Đồng minh Đài Loan-Thái Bình Dương lần thứ nhất. Các tổng thống Palau cũng đến thăm các quốc gia Thái Bình Dương khác, trong đó có Đài Loan.

Hoa Kỳ duy trì một phái đoàn ngoại giao và một đại sứ quán tại Palau, song hầu hết khía cạnh trong quan hệ hai bên được thực hiện theo các dự án được tài trợ trong khuôn khổ Hiệp ước, do Phòng Quốc hải vụ của Bộ Nội vụ Hoa Kỳ chịu trách nhiệm.[17] Trên chính trường quốc tế, Palau thường bỏ phiếu giống Hoa Kỳ trong các nghị quyết của Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc.[18] Palau là một thành viên của Hiệp ước Nauru.[19]

Năm 1981, Palau bỏ phiếu lập ra hiến pháp phi hạt nhân đầu tiên trên thế giới. Hiến pháp này cấm chỉ sử dụng, lưu trữ và xử lý các vũ khí hạt nhân, hóa học độc hại, không khí và sinh học mà không được 3/4 dân số tán thành trong một cuộc trưng cầu dân ý.[20] Điều cấm này làm trì hoãn quá trình chuyển đổi Palau thành quốc gia độc lập, do trong khi đàm phán Hoa Kỳ nhất định muốn vận hành các tàu chạy bằng năng lượng hạt nhân và vũ khí hạt nhân cất trong kho trên lãnh thổ Palau,[21] xúc tiến các chiến dịch đòi độc lập và phi hạt nhân hóa.[22] Sau một vài cuộc trưng cầu dân ý thất bại trong việc đạt đa số 3/4, người dân Palau cuối cùng tán thành Hiệp ước vào năm 1994.[23][24]

Hành chính

16 bang của Palau.
Bài chi tiết: Bang của Palau

Palau được chia thành 16 bang (gọi là khu tự quản cho đến năm 1984):

BangDiện tích (km²)Dân số (2012)
Aimeliik44281
Airai592537
Angaur8,06130
Hatohobei0,910
Kayangel1,776
Koror60,5211670
Melekeok26300
Ngaraard34453
Ngarchelong11,2281
Ngardmau34195
Ngaremlengui68310
Ngatpang33257
Ngchesar43287
Ngiwal17226
Peleliu22,3510
Sonsorol3,142